Cập nhật nhiễm khuẩn da mô mềm hoại tử
Nhiễm khuẩn mô mềm hoại
tử (Necrotising soft- tissue infection) là nhiễm trùng đe dọa tính mạng đặc
trưng bởi sự hoại tử liên quan đến bất kỳ hoặc tất cả các lớp của khoang mô mềm,
từ lớp hạ bì và mô dưới da đến cân và cơ sâu hơn với tỷ lệ mắc bệnh và tử vong
cao.
Ảnh: Minh họa
1. Cơ chế
bệnh sinh
Những yếu tố
gây bệnh nhiễm khuẩn mô mềm hoại tử bao gồm:
- Nguy cơ tiếp xúc với
mầm bệnh gây bệnh
- Cung cấp lối vào
cho phép vi khuẩn có khả năng sinh độc tố xâm nhập vào
cân, cơ dưới da
- Đặc điểm của vi khuẩn
gây bệnh.
- Yếu tố người bệnh
(di truyền và mắc phải).
2. Nhiễm khuẩn mô mềm hoại tử
Nhiễm khuẩn mô
mềm hoại tử chủ yếu là nhiễm khuẩn đa vi khuẩn. Trong một phân tích tổng hợp gần
đây (bao gồm tổng số 8718 bệnh nhân từ 105 nghiên cứu), tỷ lệ nhiễm khuẩn đa vi
khuẩn là 53% và nhiễm khuẩn đơn vi khuẩn là 37%.
Nhiễm khuẩn mô
mềm hoại tử được phân loại vi sinh học, gồm:
- Loại 1: Nhiễm khuẩn
đa vi khuẩn gây ra bởi cầu khuẩn gram dương, trực
khuẩn lên men và không lên men, vi khuẩn kỵ khí)
- Loại 2: Nhiễm khuẩn
đơn vi khuẩn gây ra bởi Streptococcus spp hoặc
Staphylococcus aureus
- Loại 3: Do các loài
Vibrio spp hoặc Aeromonas gây ra.
- Loại 4: Gần đây được
đề xuất cho nhiễm nấm, chủ yếu liên quan đến Candida sp và Zygomycetes ở bệnh
nhân bị suy giảm miễn dịch.
Mặc dù tác nhân thường gặp là các vi khuẩn gram dương, nhiều
loại vi sinh vật gram âm cũng có thể gây nhiễm khuẩn mô mềm hoại tử tùy thuộc
vào yếu tố dịch tễ học và ký chủ tại địa phương (Vibrio spp ở vùng cận nhiệt đới).
Các báo cáo gần đây về nhiễm khuẩn mô mềm hoại tử do Enterobacteria, xảy ra chủ
yếu ở những bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch, với tỷ lệ tử vong cao hơn so với
nhiễm trùng mô mềm hoại tử loại 1 và 2, gợi ý xem xét lại cách phân loại này.
Nhiễm
khuẩn mô mềm hoại tử đa vi khuẩn
Vi khuẩn gây bệnh thường là hệ vi sinh vật thường trú trên da của bệnh nhân, hệ vi sinh vật đường ruột và hầu họng, có thể bao gồm cả vi khuẩn mắc phải bệnh viện. Vi khuẩn xâm nhập vào các mô dưới da do các tổn thương trên da hoặc từ đường hầu họng, dạ dày – tiết niệu thông qua dụng cụ, phẫu thuật, vỡ áp xe hoặc rò rỉ từ các vị trí không vô trùng, đôi khi liên quan đến ung thư biểu mô. Mô suy yếu, cùng với các bệnh lý kèm theo của bệnh nhân như tiểu đường, sử dụng thuốc steroids hoặc thuốc chống viêm không steroid (NSAIDs), ức chế miễn dịch, làm suy yếu hệ thống hàng rào bảo vệ của bạch cầu trung tính, cho phép vi khuẩn không có độc lực hiệp đồng và dẫn đến nhiễm khuẩn mô mềm.
3. Điều trị nhiễm khuẩn mô mềm hoại tử
Một trường hợp mô mềm hoại tử
Can thiệp phẫu thuật cắt bỏ mô hoại tử sớm trong vòng 6 –
12h sau khi nhập viện làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong và tối ưu hóa liệu pháp
kháng sinh, hỗ trợ huyết động là phương thức điều trị chính. Ở những bệnh nhân
bị nhiễm khuẩn mô mềm hoại tử, sự tưới máu đến các mô bị thay đổi gây cản trở
việc đưa kháng sinh đến các vị trí bị nhiễm trùng, khuyến cáo nên điều trị thay
thế dịch nhằm tăng thể tích phân bố (trong shock nhiễm khuẩn) và hoại tử mô. Liệu
pháp kháng sinh nên được bắt đầu sớm sau khi lấy mẫu nuôi cấy và duy trì 48 –
72h sau khi bệnh nhân hết sốt, cải thiện lâm sàng và không cần thiết phải phẫu
thuật thêm.
Liệu pháp kháng
sinh
Dữ liệu về liệu pháp kháng sinh điều trị nhiễm khuẩn mô mềm hoại tử còn khan hiếm, với các hướng dẫn hiện nay chủ yếu dựa trên sự đồng thuận của các chuyên gia. Liệu pháp kháng sinh đường tĩnh mạch ban đầu nên bao gồm vi khuẩn gram dương, gram âm và kỵ khí. Phác đồ kháng sinh kinh nghiệm có thể chấp nhận được bao gồm:
Đối với bệnh nhân quá mẫn cảm với kháng sinh carbapenem hoặc piperacillin/tazobactam, có thể được điều trị bằng aminoglycosid hoặc fluoroquinolon, phối hợp với metronidazol.
Kháng sinh điều trị nên được hiệu chỉnh dựa trên kết quả nuôi cấy và kháng sinh đồ:
- Nhiễm khuẩn liên cầu khuẩn nhóm A (Group A streptococcal - GAS), liên cầu khuẩn nhóm B tán huyết khác (other beta-hemolytic streptococcal): Penicillin 4 triệu đơn vị IV mỗi 4h ở người trưởng thành > 60kg với chức năng thận bình thường) phối hợp với Clindamycin 600 – 900 mg IV mỗi 8h. Điều trị phối hợp kháng sinh penicillin và clindamycin nên được tiếp tục cho đến khi bệnh nhân ổn định về mặt lâm sàng và huyết động trong ít nhất 48 đến 72 giờ; Sau đó, đơn trị liệu penicillin có thể được sử dụng.
+ Nhiễm khuẩn
clostridial: Phối hợp penicillin và clindamyicn (liều như trên)
+ Nhiễm khuẩn
Aeromonas spp: Theo hướng dẫn điều trị từ Hiệp hội Bệnh truyền nhiễm Hoa Kỳ (IDSA),
doxycycline phối hợp với ciprofloxacin
hoặc ceftriaxone dùng để điều trị nhiễm khuẩn da mô mềm hoại tử do
aeromonas spp.
+ Phối hợp kháng
sinh doxycycline với ceftriaxone hoặc cefotaxime đã được khuyến cáo trong điều
trị viêm cân hoại tử do Vibrio Vulnificus.
3. Vancomycin kết hợp với clindamycin trong nhiễm
khuẩn da mô mềm
Lựa chọn kháng sinh ức chế sản xuất
độc tố đóng vai trò quan trọng, đặc biệt ở những bệnh nhân có bằng chứng về hội
chứng sốc nhiễm độc, nghi ngờ do nhiễm liên cầu streptococcus spp hoặc tụ cầu
staphylococcus aureus có khả năng sinh ngoại độc tố (exotoxins). Linezolid và
clindamycin có cơ chế ức chế tổng hợp protein của vi khuẩn bằng cách tác động
lên Ribosome 50 S gây ức chế đáng kể sản xuất exotoxin từ các mầm bệnh gram
dương này.
Trên bệnh nhân nghi ngờ có hội chứng
shock nhiễm độc (biểu hiện bằng sốt cao 39-40 oC, hạ huyết áp, suy
đa cơ quan, đồng thời bệnh nhân có xuất hiện nhọt, nhiễm trùng mô mềm, có ban đỏ
lan toả…) trong khi chờ đợi kết quả nuôi cấy vi khuẩn, có thể bắt đầu điều trị
kinh nghiệm bằng Clindamycin + Vancomycin.
Người
tổng hợp: DS Trương Thị Diệu Ngọc
Tổ
Dược lâm sàng – Khoa Dược – Bệnh viện 199
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Camille Hua, Tomas Urbina, Romain Bosc, Tom
Parks, et al. Necrotising
soft- tissue infections, [Lancet Infect Dis 2022 Published
Online: October
14, 2022; cited: 13/12/2022
2. Dennis L Stevens,
PhDLarry M Baddour. Necrotizing soft tissue infections,
uptodate online, [updated: Oct 07, 202; cited: 13/12/2022].
3. Robert A
Schwartz, et al
(2022). Necrotizing Fasciitis
Empiric Therapy.
[Update: Jun 13,
2022; cited: 13/12/2022].
4. Stevens DL, Bisno
AL, Chambers HF, et al (2014), Practice Guidelines for the
Diagnosis and Management of Skin and Soft Tissue Infections:
2014 Update
by the Infectious Diseases Society of America. [Published:
15 July 2014,
cited: 13/12/2022].